Đây là một câu chuyện kể rất hay về bánh giầy Quán Gánh mà người kể chính là người con của quê hương Quán Gánh, chúng ta cùng nghe câu chuyện hay về chiếc bánh truyền thống này để hiểu rõ hơn về món bánh ngon này nhé.!
Quán Gánh xưa có một ga xép nhỏ, dân ở đây làm nghề gánh thuê nên gọi Quán Gánh. Đã có thời cả làng làm bánh giầy(có nơi gọi bánh dày) bán khắp Hà Nội, Hà Đông, Hải Phòng và tới tận Sài Gòn.
Nhà tôi cách Quán Gánh 6 cây số. Hồi học cấp II, mỗi lần đạp xe đi học thêm ở Quán Gánh lại nhìn thấy những gói bánh giầy xếp cao ngất ngưởng ở ven đường. Ngày nắng cũng như ngày mưa. Tôi đã ngây ngô thắc mắc: sao bánh giầy lại có thể bày lâu như thế được? Vì bánh sẽ bị hỏng nếu để nắng đày mưa như thế! Khi lớn lên, tôi mới hiểu rắng đó là những chồng bánh “mô hình”.
Về cái sự tinh tế trong cách làm, cách thưởng thức bánh giầy Quán Gánh, tôi không nghĩ hậu sinh có ai vượt qua được bài ký của cụ Nguyễn Tuân viết về bánh giầy trong cuốn Vang bóng một thời. Nhưng tôi viết về bánh giầy với niềm tự hào quê hương mình.
Quà bánh bà ngoại cho thường là những chiếc bánh giầy nhân đậu xanh. Tôi thích cách ông ngoại giải thích về bánh giầy cho riêng tôi, anh chị em của tôi thường không thích nghe những điều này. Ông nói: bánh giầy giống như người mẹ ấp ủ đứa con. Bánh giầy cũng tượng trưng cho lòng đất ấp ủ mầm sống. Tuổi thơ của tôi lớn lên với thứ quà bánh của quê hương và niềm tin vào những ý nghĩa thiêng liêng chiếc bánh giầy Quán Gánh.
Khi còn nhỏ khi cầm chiếc bánh giầy, chưa muốn ăn vì tiếc, lấy ngón tay dí vào “da” chiếc bánh, thấy nó lõm xuống rồi lại trở về tự nhiên. Da bánh mềm nhưng không dính, không có cảm giác có nước. Ngửi mùi bánh thôi cũng đã thỏa mãn cơn thèm của trẻ con. Mùi xôi nếp hương (có hai loại gạo nếp: nếp mỡ và nếp hương. Xôi nếp nấu từ nếp hương rất thơm) còn nguyên vẹn.
Làm bánh giầy kỳ cạch lắm. Trừ Quán Gánh làm bánh giầy đặt để bán thì những làng xung quanh chỉ thỉnh thoảng mới có người làm. Mỗi lần làm là một lần chọn gạo nếp. Lúa nếp hương thường ngứa và rặm hơn lúa nếp mỡ. Xay một ít thóc,về sàng, sảy gạo thật kỹ, chỉ chọn ra những hạt gạo bụng trắng, hạt to đều nhau.
Sau đó thì đồ xôi. Xôi nóng vừa dẻo, vừa tơi được giã cho đến khi bện vào nhau, không dính chày, cối. Rồi véo từng phần nhỏ vừa vặn nhau để làm vỏ bánh. Những đứa trẻ thiếu kiên nhẫn như tôi chỉ ngồi trực được một lúc là không chịu nổi những công đoạn khá “lề mề” này.
Lại còn làm nhân bánh. Nhân bánh làm bằng đỗ xanh, hạt tiêu. Rồi cũng đồ lên, cũng đánh tơi và nêm vị mặn hoặc ngọt. Nhân bánh được vo tròn hoặc vo thành hình quả nhót vừa bỏ vào vỏ bánh.
Bánh làm xong để khô rồi xoa thêm mỡ nước, nặn lại cho đẹp rồi đem gói lại. Bánh giầy gói bằng lá dong xanh lâu nên đẹp hơn gói lá chuối. Bánh Giày Quán Gánh có 3 loại: Bánh chay (không nhân) ăn kèm giò lụa, bánh nhân mặn, bánh nhân ngọt.
Nhưng bây giờ bánh giầy bị thương mại hóa, làm không kỳ công và không ngon như xưa. Thỉnh thoảng mua bánh ven đường, tôi còn thấy bánh làm từ bột, không phải giã từ xôi. Gạo làm bánh giờ đây cũng không ngon như trước. Gạo nếp giờ năng suất chứ không thơm. Chỉ có bánh đặt mới được loại bánh giầy “xịn” mang hồn quê như trước.
Gần Quán Gánh là đền thờ Nguyễn Trãi và tổ hợp những làng nghề của Hà Tây cũ. Thăm làng nghề, thăm di tích lịch sử và ăn bánh giầy Quánh Gánh cũng là một điều thú vị. Không phải ngẫu nhiên cụ Nguyễn Tuân lại ca ngợi bánh giầy Quán Gánh như vậy.